Trong Tập đoàn Than Việt Nam có 20 mỏ khai thác hầm lò, trong đó có 7 hầm lò có công xuất từ 1.000.000 tấn than trở lên gồm các mỏ Mạo Khê, Vàng Danh, Nam Mẫu, Hà Lầm, Mông Dương, Khe Chàm, Dương Huy. Hầu hết các mỏ còn lại đã được cải tạo công xuất để đạt mức 300.000 tấn – 800.000 tấn/năm. tỷ trọng than hầm lò trong kế hoặch 2006-2010 sẽ tăng dần từ 45% năm 2006 lên 55% năm 2010 trong tổng sản lượng của tập đoàn.của
Trong Tập đoàn Than Việt Nam có 20 mỏ khai thác hầm lò, trong đó có 7 hầm lò có công xuất từ 1.000.000 tấn than trở lên gồm các mỏ Mạo Khê, Vàng Danh, Nam Mẫu, Hà Lầm, Mông Dương, Khe Chàm, Dương Huy. Hầu hết các mỏ còn lại đã được cải tạo công xuất để đạt mức 300.000 tấn – 800.000 tấn/năm. tỷ trọng than hầm lò trong kế hoặch 2006-2010 sẽ tăng dần từ 45% năm 2006 lên 55% năm 2010 trong tổng sản lượng của tập đoàn.của
Ở hầu hết các mỏ hầm lò, sơ đồ khai thông, mở vỉa được áp dụng là phương pháp khai thông bằng giếng nghiêng kết hợp lò bằng từng tần, sử dụngu băng tải vận chuyển than trên giếng chính để đáp ứng yêu cầu nâng công suất mỏ hàng năm. Một số mỏ khác có điều kiện tự nhiên thuận lợi đang khai thác nông được mở vỉa bằng mỏ bằng, vận tải bằng tàu điện. Công nghệ khai thác phổ biến là lò chợ chia cột dài theo phương; các vỉa dày, vỉa cốc được áp dụng các công nghệ riêng phù hợp với từng mỏ.
Công tác khấu than đang được dịch chuyển dần từ công nghệ khoan nổ mìn sang công nghệ cơ giới hoá: ở khâu đào lò than hiện đại đã có 11 tổ hợp máy Combai đào lò AM – 45 và AM -50Z đang hoạt động; có hai dây chuyền cơ giới hoá đang hoạt động tại công ty than Khe Chàm. Một số công ty thành viên đã xây dựng kế hoạch và dự án đầu tư các tổ hợp cơ giới hoá đào lò và khai thác than trong kế hoạc 2006-2010 để nâng cao năng xuất lao động, giảm tiêu hao lao động sống nhằm từng bước nâng cao thu nhập cho thợ mỏ.
Ở hầu hết các mỏ hầm lò, sơ đồ khai thông, mở vỉa được áp dụng là phương pháp khai thông bằng giếng nghiêng kết hợp lò bằng từng tần, sử dụngu băng tải vận chuyển than trên giếng chính để đáp ứng yêu cầu nâng công suất mỏ hàng năm. Một số mỏ khác có điều kiện tự nhiên thuận lợi đang khai thác nông được mở vỉa bằng mỏ bằng, vận tải bằng tàu điện. Công nghệ khai thác phổ biến là lò chợ chia cột dài theo phương; các vỉa dày, vỉa cốc được áp dụng các công nghệ riêng phù hợp với từng mỏ.
Công tác khấu than đang được dịch chuyển dần từ công nghệ khoan nổ mìn sang công nghệ cơ giới hoá: ở khâu đào lò than hiện đại đã có 11 tổ hợp máy Combai đào lò AM – 45 và AM -50Z đang hoạt động; có hai dây chuyền cơ giới hoá đang hoạt động tại công ty than Khe Chàm. Một số công ty thành viên đã xây dựng kế hoạch và dự án đầu tư các tổ hợp cơ giới hoá đào lò và khai thác than trong kế hoạc 2006-2010 để nâng cao năng xuất lao động, giảm tiêu hao lao động sống nhằm từng bước nâng cao thu nhập cho thợ mỏ.
Công tác chống giữ các đường hầm lò đang có các bước chuyển biến lớn theo hướng: thuỷ lực hoá các lò chợ khai thác than và từng bước trang bị dàn chống cơ giới hoá trong các lò chợ có điều kiện khai thác thuận lợi, hạn chế sử dụng gỗ chống lò khai thác lò chợ. Việc đào chống các đường lò cái đang thay đổi theo xu hướng mở tiết diện cho các đường lò để cải thiện điều kiện lao động cho công nhân và tạo điều kiện ứng dụng các thiết bị cơ giới hoá đào lò và khai thác than có kích thướng, khối lượng lớn có công xuất cao để tăng năng xuất lao động trong hầm lò.
Mục tiêu phát triển công nghệ hầm lò các năm tới là năng suất lao động, giảm tồn thất than và đảm bảo an toàn lao động; do vậy phải tiếp tục nghiên cứu thay đổi và áp dụng công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện mỏ địa chất tại các công ty thành viên, cơ giới hoá các khâu đào lò, vận tải và từng bước cớ giới hoá khai thác các lò chợ có điều kiện mỏ địa chất thuận lợi; Nâng cao khả năng phát hiện và phòng ngừa các hiểm hoạ mỏ, như nổ khí, bục nước của đám mỏ.
Mục tiêu phát triển công nghệ hầm lò các năm tới là năng suất lao động, giảm tồn thất than và đảm bảo an toàn lao động; do vậy phải tiếp tục nghiên cứu thay đổi và áp dụng công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện mỏ địa chất tại các công ty thành viên, cơ giới hoá các khâu đào lò, vận tải và từng bước cớ giới hoá khai thác các lò chợ có điều kiện mỏ địa chất thuận lợi; Nâng cao khả năng phát hiện và phòng ngừa các hiểm hoạ mỏ, như nổ khí, bục nước của đám mỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét